Thông tin về cuộc đời và sự nghiệp kiến trúc sư Le Corbusier
Le Corbusier (6 tháng 10 năm 1887 – 27 tháng 8 năm 1965) là một kiến trúc sư người Thụy Sĩ và Pháp nổi tiếng thế giới. Ông là một trong những người đặt nền móng cho sự phát triển của trào lưu Kiến trúc hiện đại của thế kỉ 20, cùng với Ludwig Mies van der Rohe, Walter Gropius và Theo van Doesburg. Ông là tác giả của hệ thống Modulor nổi tiếng. Ông còn là nhà quy hoạch đô thị, họa sĩ, nhà văn và thiết kế đồ nội thất. Để kỷ niệm, hình ông in lên tờ 10 franc của Thụy Sĩ và tên ông được đặt tên đường ở nhiều quốc gia.
Le Corbusier có tên trên khai sinh là Charles-Edouard Jeanneret, sinh tại một thị trấn nhỏ tại Neuchâtel ở vùng phía bắc của Thụy Sĩ, giáp giới với nước Pháp. Thời trẻ, Le Corbusier theo học tại trường thủ công mỹ nghệ tại địa phương, dưới sự hướng dẫn của Charles L’Éplattenier người đã từng du học tại Budapest và Paris, các trung tâm nghệ thuật thời bấy giờ. Thời điểm đó, Le Corbusier đã bộc lộ rõ hứng thú nghiên cứu về cấu trúc hình học của các đối tượng cũng như việc ứng dụng kĩ thuật vào nghệ thuật.
Công trình đầu tiên của ông là biệt thự Fallet, biệt thự Schowb, biệt thự Jeanneret ở vùng núi La Chaux de Fonds đã thể hiện những giải pháp sáng tạo ở việc xử lý các chi tiết kỹ thuật. Những công trình đã sử dụng tài tình những ngôn ngữ của kiến trúc bản địa vùng núi Alps. Các công trình này dần dần đã thể hiện bước tiến trong tư duy về không gian kiến trúc với việc đơn giản hóa hình khối của trong kiến trúc.
Ham muốn khám phá đã thúc đẩy Le Corbusier rời quê nhà đi du lịch vòng quanh châu Âu. Năm 1907, Le Corbusier đến Paris và làm việc cho kiến trúc sư Auguste Perret, bậc thầy về sử dụng bê tông của kiến trúc Pháp giai đoạn đó. Từ tháng 10 năm 1910 đến tháng 3 năm 1911, Le Corbusier làm việc cho văn phòng của kiến trúc sư Peter Behrens, nhà tiên phong của kiến trúc hiện đại ở Đức ở Berlin. Tại đây ông đã gặp kiến trúc sư trẻ Ludwig Mies van der Rohe. Những sự kiện này đã có ảnh hưởng rõ rệt trong sự nghiệp của ông sau này. Vào cuối năm 1911, Le Corbusier đi du lịch các nước vùng Balkans, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ. Ông đã ký họa rất nhiều những gì ông nhìn thấy trong chuyến du lịch của mình, bao gồm những công trình nổi tiếng như đền Parthenon ở khu Acropolis (Athena, Hy Lạp). Những công trình mà sau này ông tán dương trong tác phẩm “Hướng về một nền kiến trúc” (Vers une architecture) viết năm 1923.
Sự nghiệp kiến trúc sư Le Corbusier
Trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Le Corbusier giảng dạy tại trường học cũ của ông tại La-Chaux-de-Fonds. Trong thời kì này, ông tiến hành các nghiên cứu về lý thuyết kiến trúc với kỹ thuật hiện đại. Một trong số đó là hệ thống nhà Dom-ino trong giai đoạn 1914-1915 với hy vọng đáp ứng cho việc xây dựng công nghiệp sau chiến tranh. Đồ án này đề xuất một hệ thống sàn bê tông lắp ghép với các cột xung quanh, với các nút giao thông đứng được bố trí bên cạnh. Đây là một hệ thống không gian mở và linh hoạt. Đồ án này trở thành nền tảng cho hầu hết các công trình của ông trong vòng 10 năm sau đó. Sau khi chiến tranh kết thúc, ông quay lại Paris, cộng tác với người em họ là Pierre Jeanneret (1896-1967) mở một hãng thiết kế hoạt động đến năm 1940.
Những công trình nổi tiếng của kiến trúc sư Le Corbusier
Le Corbusier là một kiến trúc sư người Pháp và Thụy Sĩ nổi tiếng thế giới. Ông là một trong số những người đặt nền móng cho sự phát triển của trào lưu Kiến trúc Hiện đại thế kỷ 20. Những di sản kiến trúc của ông trải dài từ Đông sang Tây, rất nhiều trong số đó đã trở thành Di sản thế giới của nhân loại.
Tham khảo thêm công trình và thông tin của một số KTS danh tiếng:
> Xem thêm: kiến trúc sư bill bensley
> Xem thêm: le corbusier
> Xem thêm: Ando Tadao
Một số công trình nổi tiếng
- 1905 – Biệt thự Fallet, La Chaux-de-Fonds, Thụy Sĩ
- 1912 – Biệt thự Jeanneret, La Chaux-de-Fonds, Thụy Sĩ
- 1916 – Biệt thự Schwob, La Chaux-de-Fonds, Thụy Sĩ
- 1923 – Biệt thự LaRoche/Biệt thự Jeanneret, Paris, Pháp
- 1924 – Gian triển lãm Tư tưởng mới (Pavillon de L’Esprit Nouveau) tại Triển lãm Thế giới, Paris, Pháp (đã bị phá hủy)
- 1924 – Quận Modernes Frugès, Pessac, Pháp
- 1926 – Biệt thự Cook, Boulogne-sur-Seine, Pháp
- 1927 – Biệt thự Weissenhof Siedlung, Stuttgart, Đức
- 1928 – Biệt thự Savoye, Poissy-sur-Seine, Pháp
- 1929 – Nhà chúa Cứu thế (Armée du Salut) khu tị nạn, Paris, Pháp
- 1930 – Tòa nhà Thụy Sĩ, Thành phố đại học, Paris, Pháp
- 1933 – Tòa nhà chính phủ Tsentrosoyuz, Moskva, Liên Xô
- 1938 – Nhà chọc trời “Cartesian”
- 1947 – 1952 – Đơn vị ở lớn Marseille (Unité d’Habitation), Marseille, Pháp
- 1949 – Nhà máy Claude và Duval, Saint-Dié-des-Vosges, Pháp
- 1950 – 1955 – Nhà thờ Notre Dame du Haut, Ronchamp, Pháp
- 1951 – Nhà nghỉ Le Corbusier, Roquebrune-Cap-Martin
- 1951 – Tòa nhà Jaoul, Neuilly-sur-Seine, Pháp
- 1952 – 1959 – Khu nhà chính phủ ở Chandigarh, Ấn Độ
- 1952 – Toà án tối cao
- 1952 – Bảo tàng nghệ thuật
- 1953 – Văn phòng tổng trưởng
- 1953 – Câu lạc bộ Hải dương
- 1955 – Quốc hội
- 1959 – Trường nghệ thuật
- 1953 – Toàn nhà Bresil, Thành phố Đại học, Paris, Pháp
- 1956 – Đơn vị ở lớn Briey và Forêt, Briey en Forêt, Pháp
- 1957 – 1960 – Sainte Marie de La Tourette, gần Lyon, Pháp
- 1957 – Đơn vị ở lớn ở Berlin-Charlottenburg, Heilsbergen Dreieck 143, Berlin, Đức
- 1958 – Pavillon Philips, Brussels, Bỉ (đã bị phá hủy)
- 1960 – Unité d’Habitation de Firminy, Firminy, Pháp
- 1961 – Trung tâm Nghệ thuật Thị giác, Đại học Harvard, Cambridge, Massachusetts, Mỹ
Ý tưởng trong thiết kế của Le Corbusier
Năm nguyên tắc thiết kế
Biệt thự Savoye đã tập hợp năm nguyên tắc thiết kế kiến trúc mà ông nêu ra trông tạp chí L’Esprit Nouveau và cuốn sách Vers une architecture:
- Nhà trên cột, giải phóng không gian tầng một
- Vườn trên mái
- Mặt bằng tự do
- Cửa sổ băng ngang
- Mặt đứng tự do
Hệ Modulor
Đây là một hệ tỉ lệ trong kiến trúc được Le Corbusier giới thiệu lần đầu vào năm 1948 và ứng dụng lần đầu tiên trong Đơn vị ở lớn Marseille. Hệ tỉ lệ này, được xây dựng trên tỉ lệ vàng truyền thống của kiến trúc châu Âu cổ đại được Le Corbusier kết hợp với các số đo của nhân trắc học con người nhằm mục đích phù hợp với các thiết kế kiến trúc cũng như đạt được vẻ đẹp hài hòa với tự nhiên. Theo Le Corbusier: “Tự nhiên là toán học, tất cả các tuyệt tác của nghệ thuật đều hài hòa với tự nhiên, những tác phẩm đó thể hiện những quy luật của tự nhiên và phục vụ những quy luật đó“.
Hệ Modulor có hai chỉ bậc là dãy xanh và dãy đỏ theo quy luật của Dãy Fibonacci dựa trên các số đo hình thể. Dãy đỏ bắt đầu với đơn vị chuẩn là 1,13 m bằng 1M và dãy xanh với đơn vị chuẩn là 2,26 m tức 2M.
Chuỗi Đỏ | Chuỗi Xanh | ||
Đơn vị mét | Đơn vị inch | Đơn vị mét | Đơn vị inch |
4,79 | 116″1/1 | 9,57 | 233″ |
2,96 | 72″ | 5,92 | 144″ |
1,83 | 44″1/2 | 3,66 | 89″ |
1,13 | 27″1/2 | 2,26 | 55″ |
0,70 | 17″ | 1,40 | 34″ |
0,43 | 10″1/2 | 0,86 | 21″ |
0,26 | 6″1/2 | 0,53 | 13″ |
Quy hoạch đô thị
Le Courbusier ngoài việc xây dựng một nền kiến trúc mới chống lại phái hàn lâm kinh viện, đã coi quy hoạch đô thị là một công việc có tầm quan trọng chiến lược, sống còn đối với văn minh nhân loại. Ông coi “quy hoạch đô thị là chìa khoá” để giải quyết mọi vấn đề kiến trúc xây dựng. Le Courbusier là tác giả của các phương án thành phố ba triệu dân, phương án cải tạo trung tâm Paris và nhiều phương án quy hoạch các đô thị nhiều nước trên thế giới.
Mô hình thành phố ba triệu dân được Le Courbusier đưa ra vào năm 1922. Ông phê phán kiểu xây dựng hỗn loạn vô chính phủ hiện tại, muốn thực hiện một cách xây dựng có quy luật, có trật tự, chủ trương xây dựng hàng loạt, xây dựng công nghiệp hoá. Mô hình này được thử nghiệm tại Paris, áp dụng khái niệm về mối quạn hệ giữa công trình và môi trường. Mô hình chú trọng đến quan hệ hợp lý giữa giao thông với khu sản xuất, khu nhà ở.
Mô hình Thành phố ba triệu dân có dạng một hình chữ nhật lớn, có những trục giao thông chính và phụ đan nhau 90° hoặc 45°. Ở giữa trung tâm thành phố rộng lớn 350 ha là khu vực làm việc, dịch vụ với 24 nhà chọc trời cao 66 tầng, mỗi nhà cho 3000 dân, đặt cách nhau 150 mét. Mật độ cư trú là 300 người/ha, mật độ xây dựng 5%. Bao quanh khu nhà này là khu ở đầy cây xanh dành cho 400-600 nghìn người với các nhà cao tầng kiểu. Ngoài cùng là khu ở kiểu sân vườn với hai triệu dân. Các khu công nghiệp, các thị trấn-vườn được đặt ở ngoại vi. Giao thông được phân cấp, tách rời giữa đường đi bộ và đường cho xe cơ giới., có bảy loại đường giao thông để giảm khoảng cách đi lại tối thiểu. Thành phố có hai trục giao thông chính thẳng góc với nhau tạo thành hai trục quy hoạch cắt nhau ở trung tâm đô thị, mỗi trục rộng 180 mét. Nhà ga chính đặt ở trung tâm với hệ thống giao thông cả trên và dưới mặt đất.
Thiết kế đồ gia dụng
Le Corbusier bắt đầu thiết kế đồ nội thất từ năm 1928 sau khi mời kiến trúc sư Charlotte Perriand tham dự vào xưởng thiết kế của ông. Người anh em họ của ông là Jeanneret cũng cộng tác trong nhiều thiết kế.
Ảnh hưởng của Le Corbusier
Tư tưởng về kiến trúc của Le Corbusier có ảnh hưởng đến nhiều kiến trúc sư Hiện đại sau này như Richard Meier, Ando Tadao, Mario Botta…
Le Corbusier – kiến trúc sư của mọi thời đại – theo báo xây dựng
(Xây dựng) – Le Corbusier là kiến trúc sư nổi tiếng thế giới người Thụy Sĩ, là một trong những người đặt nền móng cho sự phát triển của trào lưu kiến trúc hiện đại của thế kỉ 20. Ông là nhà quy hoạch đô thị, họa sỹ, nhà văn và thiết kế đồ nội thất.
Le Corbusier – kiến trúc sư nổi tiếng thế giới
Le Corbusier sinh tại một thị trấn nhỏ tại Neuchâtel ở phía Bắc của Thụy Sĩ, giáp biên giới với nước Pháp. Thời trẻ, Le Corbusier theo học tại trường Thủ công mỹ nghệ tại địa phương, dưới sự hướng dẫn của Charles L’Éplattenier – người đã từng du học tại Budapest và Paris, các trung tâm nghệ thuật thời bấy giờ. Thời điểm đó, Le Corbusier đã bộc lộ rõ hứng thú nghiên cứu về cấu trúc hình học của các đối tượng cũng như việc ứng dụng kĩ thuật vào nghệ thuật.
Những công trình đầu tiên do ông thiết kế từ thời xưa đã sử dụng tài tình những ngôn ngữ của kiến trúc bản địa vùng núi Alps. Các công trình này dần dần đã thể hiện bước tiến trong tư duy về không gian kiến trúc, với việc đơn giản hóa hình khối trong kiến trúc.
Ham muốn khám phá đã thúc đẩy Le Corbusier rời quê nhà đi du lịch vòng quanh châu Âu. Ông đã ký họa rất nhiều những gì ông nhìn thấy trong chuyến du lịch của mình. Những công trình mà sau này ông tán dương trong tác phẩm “Hướng về một nền kiến trúc” (Vers une architecture) viết năm 1923.
Trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Le Corbusier giảng dạy tại trường học cũ của ông tại La-Chaux-de-Fonds. Trong thời kì này, ông tiến hành các nghiên cứu về lý thuyết kiến trúc với kỹ thuật hiện đại. Sau khi chiến tranh kết thúc, ông quay lại Paris, cộng tác với người em họ là Pierre Jeanneret (1896-1967) mở một hãng thiết kế, hoạt động đến năm 1940.
Năm 1948, Le Corbusier giới thiệu Hệ Modulor, đây là một hệ tỉ lệ trong kiến trúc được ứng dụng lần đầu tiên trong Đơn vị ở lớn Marseille. Hệ tỉ lệ này, được xây dựng trên tỉ lệ vàng truyền thống của kiến trúc châu Âu cổ đại, được Le Corbusier kết hợp với các số đo của nhân trắc học con người, nhằm mục đích phù hợp với các thiết kế kiến trúc cũng như đạt được vẻ đẹp hài hòa với tự nhiên. Le Courbusier xem quy hoạch đô thị là một công việc có tầm quan trọng chiến lược, sống còn đối với văn minh nhân loại. Ông đánh giá quy hoạch đô thị là chìa khoá để giải quyết mọi vấn đề kiến trúc xây dựng.
Le Corbusier bắt đầu thiết kế đồ nội thất từ năm 1928, sau khi mời kiến trúc sư Charlotte Perriand tham dự vào xưởng thiết kế của ông. Người anh em họ của ông là Jeanneret cũng cộng tác trong nhiều thiết kế. Tư tưởng về kiến trúc của Le Corbusier có ảnh hưởng đến nhiều kiến trúc sư hiện đại sau này, như Richard Meier, Ando Tadao, Mario Botta…
Chandigarh – Bài học về quy hoạch đô thị xuất sắc
Chandigarh là một trong những công trình quy hoạch đô thị có ý nghĩa nhất của thế kỷ XX. Đây chính là một trong những công trình quy hoạch – kiến trúc đô thị xuất sắc của Le Corbusier. Chandigarh có ảnh hưởng to lớn đến nền kiến trúc hiện đại cũng như quy hoạch đô thị của Ấn Độ và sau này trở thành biểu tượng của đô thị hoá thế giới. Chandigarh nổi tiếng vì quy hoạch cảnh quan cũng như môi trường kiến trúc.
Nhà Quốc hội Chandigarh, Ấn độ do Le Corbusier thiết kế
Yếu tố cấu thành trong quy hoạch của Le Corbusier
Le Corbusier so sánh TP mà ông quy hoạch như một thực thể sinh học để phân chia thành từng khu vực theo chủ ý của ông: Đầu là Capitol (các công trình đứng đầu Nhà nước), tim là khu trung tâm TP, chi là các khu làm việc của các trụ sở hành chính và các trường học. Thung lũng Giải trí (Leisure Valley) hầu như nằm vắt ngang TP Chandigarh, bên cạnh đó còn có những công viên nằm trải dài qua mỗi khu vực để tạo cho từng người dân đô thị có cơ hội ngắm nhìn bức tranh toàn cảnh của đồi núi và bầu trời.
Le Corbusier phân biệt bốn chức năng cơ bản của một TP: Chức năng ở, làm việc, lưu thông và giữ gìn vật thể, cải thiện tinh thần của con người. Mỗi một phân khu được quy hoạch chi tiết gồm các cửa hàng, hạ tầng kỹ thuật và nơi thờ phụng. “Yếu tố lưu thông” được Le Corbusier coi trọng nhất. Bằng việc tạo ra hệ thống lưu thông cấp bậc, Le Corbusier đã tìm ra giải pháp giao thông tiện lợi nhất cho mọi địa điểm của TP đồng thời cũng rất thanh bình và an toàn.
Chức năng ở
Le Corbusier coi chức năng này là yếu tố quan trọng của đô thị hóa hiện đại và đã tuân theo tỷ lệ hài hòa giữa các yếu tố thiết kế không gian ở. Tất cả các tòa nhà được xây dựng trên những nền đất cao, kích cỡ về cửa, cửa sổ được quy định chặt chẽ. Tuy một số thiết kế nhà có những đặc điểm riêng biệt nhưng ý kiến chủ đạo vẫn phải bảo đảm có tầm nhìn hướng tới đường phố và cộng đồng xung quanh. Các tòa nhà dọc theo những trục chính của TP được kiểm soát theo quy định chặt chẽ của kiến trúc. Những ngôi nhà tư nhân ở Chandigarh đều phải tuân thủ theo thiết kế và kiến trúc chuẩn được KTS trưởng phê duyệt. Trong các khu nhà ở không gian xanh luôn được xen kẽ và hợp nhất. Le Corbusier đã dự tính việc xây dựng tương lai thêm những trường học và sân vui chơi giải trí trong những không gian xanh sau các khu nhà ở.
Chandigarh là một TP khá thành công về quy hoạch nhà ở, cung cấp cho những người dân nơi đây một mô hình nhà ở đạt chất lượng cao đồng thời qua thời gian vẫn đáp ứng với nhu cầu tăng trưởng nhanh của TP. Khi quá trình đô thị hóa diễn ra, với mô hình nhà ở giá thành thấp đã tạo cho hàng ngàn người dân thu nhập thấp, ít kỹ năng… vẫn có cơ hội được sống ở Chandigarh.
Chức năng cải thiện đời sống tinh thần của con người
Chức năng này gồm không gian mở, không gian cây xanh và các cấu trúc đa dạng khác. 800ha không gian mở và cây xanh trải dài trên gần 114km2 của TP gồm Thung lũng Giải trí, Hồ nhân tạo Sukhna, Vườn Rock và nhiều khu vườn đặc biệt khác. Hơn nữa các khu được hợp nhất cùng không gian mở đều hướng tới núi. Đan xen giữa các toà nhà hoành tráng, Le Corbusier đã hợp nhất hệ thống cây xanh tiếp nối từ cuối phố này đến phố khác, tạo nên tầm nhìn thông suốt.
Le Corbusier quy hoạch các con đường dành cho người đi bộ và xe đạp thông suốt dưới những rặng cây xanh cho phép người dân có thể dạo theo chiều dài của các khu phố, hòa cùng thiên nhiên. Ngang qua TP có thung lũng nhỏ khoảng 8km với chiều sâu khoảng 6m và đoạn rộng nhất chỉ lên tới 300m. Một loạt các khu vườn đặc biệt được tạo dựng theo chiều dài thung lũng và hiện tại được gọi là Thung lũng Giải trí. Bên cạnh những chuỗi vườn đó còn có rất nhiều khu vườn trồng các loại hoa và quả trong TP, tạo nên những nét hấp dẫn không thể bỏ qua đối với du khách. Trên các trục đường phố được bố trí các loại cây to tượng trưng cho từng đường phố. Mỗi trục đường giao thông có những nét đặc trưng riêng do cây xanh tạo nên. Mỗi khu ngã 3, 4 cũng có những đặc điểm cây riêng biệt phù hợp. Có hơn 100 loại cây khác nhau được trồng trên các đường phố của Chandigarh.
Biệt thự Savoye – Công trình có công năng sử dụng hoàn hảo
Đó là công trình tiêu biểu của Le Corbusier là nằm ở thành phố Poissy, một thành phố vệ tinh cách Paris khoảng 30km về phía Tây Bắc. Công trình này là điểm kết của một chuỗi các biệt thự được Le Corbusier thiết kế trong khoảng những năm 1920.
Biệt thự Savoye
Được xây dựng trong giai đoạn từ năm 1928 đến năm 1931, biệt thự này có chức năng ban đầu là nhà nghỉ cuối tuần của gia đình Savoye. Không giống như hầu hết những ngôi biệt thự được thiết kế trước đó bởi Le Corbusier, vốn nằm trong các bối cảnh đô thị phức tạp, bịệt thự Savoye toạ lạc trong một khuôn viên rộng và thoáng, với vô số các loại cây và thảm cỏ xanh rì. Điều này chính là tiền đề để Le Corbusier thiết kế một công trình thể hiện được hoàn toàn quan điểm thẩm mỹ kiến trúc dựa trên vật liệu bêtông với một số đặc điểm chính như:
– Công trình được nâng lên khỏi mặt đất bởi hệ thống cột, cho phép không gian sân vườn được trải dài tự do dưới công trình.
– Sử dụng mái phẳng bằng bêtông thay vì hệ mái dốc truyền thống, bản thân mái cũng được sử dụng vào mục đích sinh hoạt cũng như làm sân vườn.
– Sử dụng hệ thống cột, xoá bỏ hoàn toàn vai trò của hệ thống tường chịu lực, vẫn được sử dụng rất phổ biến cho đến lúc đó. Điều này cho phép công trình có mặt bằng tự do, với hệ thống vách ngăn nhẹ được đặt theo ý muốn ở từng tầng mà không cần quan tâm đến hệ thống vách ngăn ở tầng trên hay dưới nó.
– Hệ thống tường không còn chức năng chịu lực tạo thuận lợi để có thể mở những cửa sổ chạy dài từ đầu này đến đầu kia của công trình, đem theo nhiều ánh sáng và gió vào bên trong công trình.
– Hệ thống cột thụt lui vào trong so với mặt đứng, sàn đưa ra ngoài dựa trên hệ dầm công-xôn (cantilever). Mặt đứng lúc này trở nên thanh thoát nhẹ nhàng, và chỉ đơn thuần là những mảng tường bao che và những ô cửa sổ.
– Thiết kế công trình theo chủ nghĩa công năng, tất cả các yếu tố đều có giá trị sử dụng, không có bất cứ sự xuất hiện của yếu tố mang tính trang trí thuần tuý nào. Sử dụng những đường nét và hình khối rất cơ bản để đưa công trình đến một vẻ đẹp đơn giản và thuần khiết.
– Thiết kế công trình dựa trên sự cộng sinh giữa kiến trúc và môi trường thiên nhiên, thể hiện qua ý tưởng xoá tan những giới hạn giữa bên trong và bên ngoài công trình. Mặt bằng của ngôi nhà được bó gọn trong một hình chữ nhật với tỷ lệ xác định theo quy tắc tỷ lệ vàng, dựa trên các nghiên cứu về toán học.
Biệt thự Savoye là sự đúc kết của nhiều năm thiết kế, và cũng là một cái nền cơ bản cho rất nhiều những công trình sau này của Le Corbusier.
Sau thế chiến thứ 2, công trình đã được chính quyền thành phố Poissy mua lại để cải tạo lại thành một trường học vào năm 1958. Nhận thức được những ảnh hưởng sâu rộng của công trình đến sự phát triển của kiến trúc thế giới, năm 1962, Chính phủ Pháp đã mua lại quyền sở hữu công trình để rồi từ năm 1963 đến năm 1997, công trình đã trải qua nhiều cuộc cải tạo và phục dựng để trở lại với thiết kế ban đầu, nhưng hoạt động như một điểm du lịch, một bảo tàng của trường phái kiến trúc hiện đại. Cũng trong giai đoạn này, công trình được xếp hạng di tích văn hoá lịch sử quốc gia, khi mà Le Corbusier vẫn còn sống và làm việc.
Ngày 17/07/2016 vừa qua, Tổ chức UNESCO chính thức công nhận 17 công trình xây dựng của kiến trúc sư Le Corbusier (1887-1965) thuộc Di sản thế giới.
Tài liệu tham khảo:
How dedicated a fascist was Le Corbusier?
14 Facts You Didn’t Know About Le Corbusier
Luxury Design
Smart planning in the world.
Khánh Phương