Tìm hiểu các công trình kiến trúc thời Lê Trung Hưng và đặc điểm của thời kỳ này
Nhà Lê trung hưng là giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Nhà Lê trung hưng được thành lập khi Lê Trang Tông với sự phò tá của cựu thần nhà Lê sơ là Nguyễn Kim được đưa lên ngôi báu. Đây là triều đại dài nhất so với các triều đại Việt Nam với 256 năm
Tổng quan kiến trúc thời lê trung hưng
Nghệ thuật kiến trúc thời Lê Trung Hưng (Đàng Ngoài) trong thời kỳ Lê trung hưng thể hiện đa dạng các loại hình nghệ thuật của Đại Việt khi chúng phát triển trong khu vực lãnh thổ được chúa Trịnh quản lý (đặc biệt là phía bắc sông Gianh). Trong lĩnh vực nghệ thuật này, tập trung chủ yếu vào kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc và hội họa.
Các kiến trúc lăng mộ của vua chúa trong thời kỳ này thường tái hiện cơ bản theo mô hình của đời trước và không đưa ra những đặc điểm mới so với thời kỳ Lê sơ.
Ngược lại, trong lĩnh vực kiến trúc dân gian, có sự phóng khoáng và cởi mở hơn, nhờ vào sự sáng tạo của các thợ nghệ nhân.
Cung điện và Đình làng
Từ thế kỷ 17, số lượng đình làng và xã tăng lên, và đến thế kỷ 18, hầu như mọi làng xã đều sở hữu một đình. Thời kỳ Chính Hòa (1680-1705) được coi là đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc đình làng[2]. Các ngôi đình làng như đình Chu Quyến (Hà Nội) và đình Thổ Tang, Ngọc Canh (Vĩnh Phúc) mang đặc điểm kiến trúc độc đáo. Ở đình Chu Quyến, các tượng tròn như chim, phượng và người cưỡi báo được gắn trên giá đỡ ở cột. Trong khi đó, đình Thổ Tang và Ngọc Canh có phù điêu được kết thành chuỗi dài, mô phỏng hoạt cảnh như người cày, đi săn, đá cầu, đấu võ, và hội làng…
Đến thế kỷ 18, nhiều đình làng đã có kiến trúc nổi bật như đình Thạch Lỗi (Văn Giang, Hưng Yên), Nhân Lý (Nam Sách, Hải Dương), và đặc biệt là đình Đình Bảng (Bắc Ninh), hay còn gọi là đình Báng. Đình Bảng, xây dựng cách đây 300 năm, vẫn giữ nguyên kiến trúc từ thời Nguyễn Thạc Lượng xây dựng trong suốt 36 năm (1700-1736)[3][4], là một trong số ít ngôi đình nổi tiếng nhất, được xem là có thời gian xây dựng lâu nhất đối với một ngôi đình[5].
Chùa và Kiến trúc chùa
Ngoài các đình, nhiều chùa cũng được quan lại và quý tộc thực hiện trùng tu, sửa chữa từ những ngôi chùa có từ thời đời trước. Kiến trúc chùa trong thời kỳ này thường hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên, tạo cảm giác gần gũi với cuộc sống hàng ngày hơn là mang tính uy nghiêm như ở những nơi theo đạo Phật khác[6].
Chẳng hạn, chùa Keo (hay chùa Thần Quang) ở Thái Bình được xây dựng mới năm 1632 và nhiều lần trùng tu trong thế kỷ 17-18 với kiến trúc “thượng thu hạ thách” và hệ thống cột biên độc đáo. Chùa Bút Tháp (hay chùa Ninh Phúc) ở Bắc Ninh được xây lại năm 1646-1647, có tháp Báo Nghiêm (tháp Bút) cao hơn 13 mét gồm 5 tầng.
Chùa Tây Phương (hay chùa Sùng Phúc) ở Thạch Thất (Hà Nội) cũng trải qua xây dựng và trùng tu, nằm trên núi Câu Lậu cao 50 mét. Từ chân núi tới chùa có 329 bậc đá ong. Chùa này có kiến trúc ấn tượng với 3 tầng chính, cách nhau 1,6 mét, theo kiểu chồng diêm, và tường ngoài được xây bằng gạch Bát Tràng. Các chi tiết trang trí kiểu mái cong, còn gọi là “đóa hoa đao đình”, với các họa tiết chim muông, hoa lá được chạm khắc rất tinh tế theo triết lý sắc sảo không không của đạo Phật[7].
Chùa Hương Tích (Hà Nội) tạo thành một quần thể chùa được đánh giá là đẹp nhất Đại Việt (Nam thiên đệ nhất động), nằm trong bối cảnh hùng vĩ của những ngọn núi cao bên bờ suối Yến.
Nêu những nét chính về kiến trúc thời Lê trung hưng
Trong thời kỳ Lê trung hưng, kiến trúc cung đình và lăng mộ của các vua chúa tiếp tục phát triển, duy trì sự tiếp nối với các phong cách kiến trúc từ các thời kỳ trước, trong khi kiến trúc dân gian mở rộng và phóng khoáng hơn.
Trải qua thế kỷ XVII – XVIII, việc xây dựng đình làng trở nên phổ biến, đặc biệt là tại Đồng bằng Bắc Bộ. Các đình như Chu Quyến (Hà Nội), Thổ Tang (Vĩnh Phúc) là biểu tượng của sự phát triển này.
Nhiều ngôi chùa được xây dựng mới hoặc trùng tu, giữ nguyên tinh thần của các ngôi chùa trước đó. Phong cách kiến trúc chùa thường hòa mình vào cảnh sắc tự nhiên và cuộc sống hàng ngày.
Loại hình kiến trúc mới xuất hiện từ thời Lê trung hưng là nhà thờ Công giáo. Hầu hết các nhà thờ được xây dựng theo phong cách kiến trúc Gô-tích, như nhà thờ Phố Hiến (Hưng Yên) xây dựng vào cuối thế kỷ XVII.
Các loại hình nghệ thuật kiến trúc thời Lê Trung Hưng
Nghệ thuật Đàng Ngoài thời Lê trung hưng
Nghệ thuật Đàng Ngoài thời Lê trung hưng phản ánh đa dạng các loại hình nghệ thuật trong nước Đại Việt dưới triều đại Lê trung hưng, đặc biệt tập trung trong vùng lãnh thổ do chúa Trịnh cai quản, nằm phía bắc sông Gianh. Các lĩnh vực chính bao gồm kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc và hội họa.
Âm nhạc Trong lĩnh vực âm nhạc dân gian, hát chèo truyền thống đã trở thành một biểu tượng văn hóa tinh thần, làm phong phú đời sống tinh thần của người dân. Các đội hát chèo được hình thành ở nhiều địa phương, tạo nên các làng hát chèo nổi tiếng, như ở Thái Bình.
Ngoài hát chèo, Đàng Ngoài còn có nhiều loại hình âm nhạc khác như hát quan họ, hát ả đào, hát trống quân, hát xoan, hát giặm và hát si, hát lượn (dân tộc Tày), hát khắp (người Thái) tại các địa phương khác nhau.
Điêu khắc
Nghệ thuật điêu khắc trong thời kỳ này đạt đến sự tinh tế, đặc biệt là trong điêu khắc trên gỗ. Tượng Phật Bà nghìn mắt nghìn tay và tượng Tuyết Sơn là hai ví dụ tiêu biểu. Tượng Phật Bà nghìn mắt nghìn tay ở chùa Ninh Phúc được coi là một pho tượng nổi tiếng, thể hiện sự tinh xảo và phóng khoáng trong tư duy và tình cảm. Tượng Tuyết Sơn xuất hiện từ thế kỷ 17, phát triển tại chùa Tây Phương, thể hiện hình ảnh con người khắc khổ và gầy gò.
Bia Nam Giao (1680) và bia Hàm Long (1714) là những công trình điêu khắc đá nổi tiếng, với các hình ảnh linh thiêng như rồng, phượng, hổ phù, kỳ lân.
Hội họa
Thời kỳ Lê trung hưng là giai đoạn phát triển của hội họa với nhiều tranh vẽ trên lụa, giấy bồi, và ván. Tranh dân gian, đặc biệt là tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống, và tranh Kim Hoàng, đều đóng góp vào diện mạo nghệ thuật dân gian vùng đồng bằng Bắc bộ.
Tranh Đông Hồ là một dòng tranh dân gian bình dân, thường treo trong dịp Tết. Tranh Hàng Trống có kỹ thuật in và tô màu phong phú, trong khi tranh Kim Hoàng kết hợp giữa in, tô màu và vẽ. Cả ba dòng tranh này mang lại vẻ đẹp độc đáo và phản ánh đời sống và văn hóa của cộng đồng.
Nghệ thuật Đàng Ngoài thời Lê trung hưng không chỉ là sự kết hợp của nhiều loại hình nghệ thuật mà còn là biểu tượng của sự đa dạng và phong phú trong văn hóa nghệ thuật Việt Nam thời kỳ đó.
Đình Cổ Chế – kiến trúc độc đáo, điêu khắc tinh xảo mang đậm phong cách nghệ thuật thời lê Trung Hưng
Đình thôn Cổ Chế – Di tích Lịch sử Văn hóa đặc biệt từ thời Lê Trung Hưng
Đình thôn Cổ Chế, tọa lạc tại xã Phúc Tiến, huyện Phú Xuyên (TP Hà Nội), đã được xếp hạng là Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Thành Phố kể từ năm 2004. Đây là một di tích kiến trúc quý, độc đáo và hiếm có từ thời kỳ Lê Trung Hưng mà vẫn tồn tại đến ngày nay.
Bước vào không gian của đình, ta không thể không ngạc nhiên trước vẻ đẹp tinh tế của nó và những tác phẩm chạm khắc như những đám mây múa bay, những đường nét trên thân gỗ. Đặc biệt, những mảng chạm có độ tỉ mỉ, độ phức tạp cao như mảng chạm Nghê ổ, với hình ảnh nghê mẹ và 7 nghê con quấn quýt, là điều hiếm thấy, thậm chí không xuất hiện ở các ngôi đình cùng thời kỳ.
Ngoài hình tượng Nghê, ngôi đình còn ghi chép về những hình ảnh độc đáo như người cưỡi Nghê, người cưỡi Rồng, người cưỡi Hổ… Tính độc đáo và sự nổi bật của chúng không thể phủ nhận. Hoạt cảnh dân gian cũng được tường thuật lại với hình ảnh 2 người nắm đuôi trâu kéo lại, ngăn chúng khỏi việc chọi nhau.
Tuy nhiên, trái ngược với những hình ảnh sống động, tràn ngập nét dân dụ trên bức tranh của thời xưa, ngôi đình này, với hơn 300 năm tuổi đời, đang đối mặt với tình trạng suy tàn từng ngày và có thể đe dọa sự tồn tại của nó bất cứ lúc nào.
6,7 năm trôi qua, đình Cổ Chế vẫn chưa được tiến hành công tác trùng tu. Cộng đồng dân làng Cổ Chế ngày nay đã buộc phải treo biển cảnh báo, không ai được phép tiếp cận đình vì lo ngại về nguy cơ sập đổ. Chúng tôi nghiêng mình đề xuất các cơ quan quản lý văn hóa nhanh chóng đưa ra giải pháp cụ thể để bảo tồn một di tích lịch sử cấp quốc gia quý báu trước khi quá trễ.
Thành bậc đá Điện Kính Thiên: Tuyệt tác điêu khắc thời Lê Trung Hưng
Điện Kính Thiên được coi là hồn cốt của Hoàng thành Thăng Long xưa. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, những gì còn sót lại đến ngày nay của Điện Kính Thiên chỉ là thềm đá và nền điện cũ.
Ngày 30/1/2023, bộ thành bậc Điện Kính Thiên, niên đại thế kỷ 17 đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia. Tuy nhiên, nhiều người đã phát sinh hiểu nhầm giữa bộ thành bậc mang niên đại thời Lê Trung Hưng mới được công nhận nằm ở phía sau, với bộ thành bậc chính giữa phía trước thời Lê Sơ, bảo vật được công nhận tháng 12/2020. Điều này khiến mọi người cho rằng Nhà nước đang công nhận 1 bảo vật 2 lần.
Thực tế, Điện Kính Thiên gồm 2 bộ thành bậc với nhiều điểm khác biệt, tiêu biểu cho 2 thời kỳ lịch sử khác nhau. Nếu bộ thành bậc phía trước đại diện cho kiến trúc thời Lê Sơ thì bộ thành bậc phía sau lại là tiêu biểu cho kiến trúc thời Lê Trung Hưng, một thành tố không thể tách rời, gắn liền với điện Kính Thiên. Rồng trong hệ thống bộ thành bậc thời Lê Trung Hưng được chạm trong tư thế vận động từ trên xuống dưới theo chiều dọc của thành bậc, cách điệu hoa văn tinh xảo với dáng dấp cứng cáp không lặp lại ở các di tích, di vật cùng loại khác.
Dấu ấn riêng trong dòng chảy lịch sử mỹ thuật thời Lê Trung Hưng không chỉ thể hiện qua việc đường diềm mặt ngoài lan can được chạm một nửa hình hoa liên tiền nối tiếp nhau, mà còn được thể hiện rõ ràng qua đồ án “cá hóa rồng”. Khác với “cá chép vượt vũ môn” như thường thấy, chạm trổ của bộ thành bậc phía sau Điện Kính Thiên là cá hóa rồng trong đầm sen. Đây là sự biến tấu của một đề tài quen thuộc mang tính kinh điển, tạo cho đồ án trang trí một sắc thái mới đậm tính văn hóa Việt Nam, tiếp nhận và cải biến. Trong đầm còn có uyên ương bơi lội trên sóng nước.
[Photo: Cùng con khám phá Di sản Văn hóa trong dịp Tết Thiếu nhi]
Hình tượng rồng biểu trưng cho vương quyền và thần quyền. Với những quy chuẩn chặt chẽ về cấu trúc tượng rồng của bộ thành bậc thời Lê Trung Hưng đã thể hiện tính chuẩn mực nghiêm cẩn của Nho giáo.
Suốt hơn 400 năm, bộ di vật này đã chứng kiến những sự kiện quan trọng của đất nước, nay lại tiếp tục dõi theo những sự kiện tái hiện lịch sử cung đình xưa hay những đoàn khách thập phương nườm nượp tới thăm di sản Hoàng Thành Thăng Long./.
(Vietnam+)
Chùa Keo – ngôi cổ tự có nghệ thuật kiến trúc độc nhất vô nhị

Chùa Keo, tên chữ là Thần Quang Tự, là một trong những ngôi chùa của Việt Nam còn giữ lại được nguyên vẹn nét kiến trúc xưa có kiến trúc cổ gần 400 năm, một trong 10 công trình kiến trúc cổ tiêu biểu của Việt Nam.
Chùa xây dựng vào năm 1632 (thời Lê Trung Hưng, thế kỷ XVII) là một công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc, độc đáo.
Chùa Keo xây dựng thời đó gồm 21 công trình, với 157 gian trên khu đất rộng 58.000 m2. Chùa Keo ngoài thờ Phật còn thờ Thánh (tiền Phật, hậu Thánh).
Vị thánh được thờ là Thánh tổ Dương Không Lộ, một nhà sư thời Lý có hiểu biết sâu sắc về Phật học.
Chùa Keo gồm hai cụm kiến trúc chùa thờ Phật và Đền thờ Thánh Dương Không Lộ.
Theo sử sách, Thiền sư Dương Không Lộ quê làng Giao Thủy, Phủ Hà Thanh (nay thuộc huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định), gia đình vốn làm nghề chài lưới. Ông đi tu từ năm 29 tuổi.
Năm 1060, ông sang Tây Trúc để tu luyện về đạo Phật. Đến năm 1061, dưới thời vua Lý Thánh Tông, ông trở về nước và dựng chùa Nghiêm Quang (tức chùa Keo ngày nay). Ông đã đi nhiều nơi vùng đồng bằng Bắc Bộ để dựng chùa, truyền bá Phật pháp và được suy tôn là vị tổ thứ 9 của phái thiền Việt Nam.
Thiền sư Dương Không Lộ đã từng chữa khỏi bệnh cho vua Lý Thánh Tông nên được vua phong làm Quốc sư triều Lý. Năm 1611, do sông Hồng bị sạt lở, một trận lũ lớn đã cuốn trôi ngôi chùa này. Mãi đến năm 1632, chùa mới được xây dựng lại.
Chùa có 17 công trình với 128 gian, công trình kiến trúc chính như Tam quan, Chùa Phật, Điện Thánh, gác chuông, hành lang, khu tăng xá….
Chùa được xây dựng cân đối theo lối kiến trúc đặc trưng “Nội công ngoại quốc.”
Công trình kiến trúc nổi tiếng gác chuông chùa Keo là một công trình nghệ thuật bằng gỗ độc đáo, tiêu biểu cho kiến trúc cổ Việt Nam thời hậu Lê.

Gác chuông được dựng trên một nền gạch xây vuông vắn, gác chuông cao 11,04m, có 3 tầng mái, kết cầu bằng những con sơn chồng lên nhau.
Tầng một treo một khánh đá dài 1,20m, tầng hai có quả chuông đồng cao 1,30m đường kính 1m đúc vào thời Lê Hy Tông năm 1686, tầng ba và tầng thượng treo chuông nhỏ cao 0,62m, đường kính 0,69m đúc năm 1796.
Tam quan nội là bộ cánh cửa gian trung quan chạm rồng chầu – một kiệt tác chạm khắc gỗ thế kỷ XVII. Từ tam quan nội, qua một số sân nhỏ rộng ta đến khu chùa Phật gồm chùa ông Hộ, tòa thiêu hương (ống muống) và điện Phật.
Khu chùa Phật là nơi tập trung nhiều nhất các pho tượng Phật có giá trị nghệ thuật cao vào thế kỷ 17, 18 đó là tượng Tuyết Sơn, La Hán, Quan Thế Âm Bồ Tát…
Hai dãy hành lang Đông và Tây được dựng bao quanh chùa Phật-Đền Thánh, phía trước thông qua hàng dậu và Tam quan nội, phía sau kết nối với Gác chuông, hợp thành ô chữ Quốc. Hai dãy hành lang đều được dựng trên mặt bằng hình chữ L, kết cấu khung gỗ, mái lợp ngói, mỗi dãy 33 gian.
Ngoài các kiến trúc chính, chùa Keo còn một số kiến trúc phụ trợ, như Khu Tăng xá, Nhà khách (phía Đông và phía Tây), trụ sở Ban Quản lý Di tích.
Đặc biệt, chùa còn là nơi hiện đang lưu giữ và 197 di vật, cổ vật gắn với lịch sử hình thành và phát triển của chùa (từ thế kỷ XVII đến nay), được tạo tác từ nhiều loại chất liệu (gỗ, đá, đồng), có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc sắc.
Với những giá trị đặc biệt về văn hóa lịch sử, năm 2012, quần thể chùa Keo được công nhận di tích cấp quốc gia đặc biệt.

Năm 2017, lễ hội chùa Keo (Thái Bình) đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia.
Hàng năm chùa Keo mở hội hai lần.
Hội xuân diễn ra vào ngày mùng 4 Tết Âm lịch có nhiều lễ thức, trò chơi, trò diễn dân gian truyền thống, đậm chất văn hóa, mang tính cộng đồng như Nghi thức khai chỉ mở cửa đền Thánh; Lễ dâng hương đền Thánh; thổi cơm thi; thi bắt vịt và chuỗi hoạt động của chương trình tế lễ đầu năm.
Lễ hội xuân có nhiều trò chơi, trong đó trò chơi kéo lửa thổi cơm là trò chơi cổ được lưu truyền nhiều năm, tham gia chơi có 4 đội đại diện cho các phe.
Ý nghĩa của trò chơi xuất phát sau khi Đức Thánh đi Tây trúc thỉnh kinh, đi giữa quãng đường lửa hết không có lửa thổi cơm, Đức Thánh mới nghĩ ra việc bổ đôi cây nứa lấy cỏ gianh để mồi lửa.
Khi cành nứa sát vào nhau, tàn lửa tích tụ lại bén xuống cỏ gianh, người kéo phải thổi hơi thật mạnh tạo lửa nấu cơm. Để tạo không khí sôi nổi cho lễ hội cùng với trò kéo lửa thổi cơm còn có trò bắt vịt và chạy việt dã.
Hội thu từ ngày 13 đến ngày 15 tháng Chín âm lịch mang đậm tính chất hội lịch sử, tái hiện lại cuộc đời của Quốc sư Dương Không Lộ.
Hội thu có các nghi lễ, hoạt động như Lễ khai chỉ; tế lễ Phật Thánh; rước kiệu Đức Thánh; du thuyền hát giao duyên; biểu diễn võ thuật; thi têm trầu cánh phượng; thi leo cầu ngô, kéo co, bắt vịt, đập niêu, bịt mắt đánh trống…/.